Chất sắt đối với cơ thể
Sắt là một vi khoáng chất quan yếu dự quá trình tạo máu và một phần cấu trúc của bộ não. Sắt trong cấu trúc tạo Hemoglobin (Hb) của hồng huyết cầu và làm cho hồng huyết cầu có màu đỏ. Sắt còn có trong Myoglobin ở cơ vân có tác dụng như là nơi dự trữ ô xy, chúng kết hợp với các chất dinh dưỡng để phóng thích năng lượng cho hoạt động cơ bắp. bởi thế, thiếu sắt sẽ dẫn đến giảm phát triển về trí não và khả năng hoạt động.
Chất sắt thường được dự trữ trong gan, để khi thân thiếu thì lấy ra sử dụng. Nếu kho dự trữ này cũng cạn kiệt thì người ta sẽ bị thiếu máu.
Một nghiên cứu ở Mỹ cho thấy đối với các em học trò chỉ mới thiếu dự trữ sắt trong “kho” mà chưa có mô tả thiếu máu (tức thị chỉ mới thiếu nguyên liệu tạo máu nhưng chưa có thiếu máu) thì khả năng toán học cũng đã thấp hơn các em học sinh có dự trữ sắt đầy đủ.
Mà đã đến mức thiếu máu thì sự phát triển thể chất của các em sẽ chậm lại, các em sẽ rất dễ “oải”, lười hoạt động, học kém tập kết, và còn dễ ngủ gật trong lớp.
Ảnh hưởng của sắt đến hoạt động trí não không chỉ vì sắt cung cấp oxy cho não mà còn vì sắt cũng tham dự trực tiếp vào phát triển chức năng não bộ. Nhiều cấu trúc trong não có hàm lượng sắt cao tương đương lượng sắt ở gan. Do đó, sắt cần được cung cấp cho tế bào não trong thời đoạn sớm của quá trình phát triển não bộ.
Nếu thiếu sắt xảy ra sớm (từ giai đoạn hình thành và phát triển não) có thể dẫn đến tổn thương tế bào não không hồi phục. Lúc sinh, sắt ở não chỉ có khoảng 10%, đến 10 tuổi não chỉ đạt 50% lượng sắt thường nhật, và sắt chỉ đạt tối ưu trong não ở độ tuổi 20-30.
Thiếu hụt sắt lâu dài làm giảm khả năng hoạt động thể lực, đặc biệt là các hoạt động đòi hỏi sức bền (chạy điền kinh, bơi lội, bóng đá, đua xe đạp…). Tuy nhiên, khi bổ sung đủ sắt thì khả năng này sẽ được bình phục.
Thiếu sắt còn làm giảm sức đề kháng của thân thể đối với nhiễm trùng. Mặc dù khả năng miễn dịch sẽ phục hồi lại bình thường sau 4-7 ngày cung cấp sắt.
Nhưng vấn đề là phải giải quyết tình trạng và mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng hiện mắc trước rồi sau đó mới bổ sung chất sắt được, vì nếu đang nhiễm trùng mà bổ sung sắt thì có thể nhiễm trùng sẽ nặng hơn, do có một số vi trùng ái sắt có thể dùng sắt để phát triển.
Những tả nào cho biết bị thiếu máu thiếu sắt?
Thiếu máu làm trẻ chậm hoặc ngưng phát triển về chiều cao và cân nặng. Thiếu máu ở con trẻ sẽ dẫn đến biếng ăn, suy dinh dưỡng, cơ bắp nhão, kém phát triển não bộ, chậm phát triển tâm thần vận động, giảm trí sáng dạ, dễ mắc những bệnh nhiễm trùng như viêm mũi họng, viêm phổi, tiêu chảy….
Đối với trẻ lớn thì thiếu máu gây ra giảm sự tập hợp để ý nghe bài giảng, hay buồn ngủ làm trẻ không hiểu bài, học bài khó thuộc lại mau quên, hoạt động chạy nhảy vui chơi và thể dục thể thao cũng bị hạn chế.
Thiếu máu hay gây căng thẳng mỏi mệt, chóng mặt, nước da xanh lướt, nhợt nhạt, tóc cũng như làn da, móng tuỳ thuộc đều khô, sần, mất đi độ bóng tự nhiên.
Cách tốt nhất để biết được mình có thiếu máu hay không là đi xét nghiệm máu (thử Hemoglobin, Hct, ferritin…). Nếu đã xác định thiếu máu, bé sẽ được bác sĩ tham mưu về chế độ ăn và thuốc kéo dài trong 2-3 tháng.
dự phòng và điều trị thiếu máu như thế nào?
Chất sắt có nhiều trong các loại thịt cá “đỏ” như là thịt bò, thịt heo, cá ngừ… (thịt “trắng” như thịt gia cầm thì ít sắt hơn). Chất sắt còn có nhiều ở gan, huyết, lòng đỏ trứng hoặc rau xanh như rau dền, bồ ngót, rau muống… và các loại đậu hạt. Sắt từ thức ăn có nguồn gốc động vật sẽ dễ hấp thụ hơn cội nguồn thực vật.
Trong bữa ăn nên có rau xanh hoặc dùng thêm trái cây tươi giàu vitamin C ngay sau bữa ăn chính như cam, chanh, bưởi, táo, sơ-ri, đu đủ, chuối… sẽ giúp tiếp nhận tốt chất sắt từ bữa ăn. trái lại, chất tanin trong trà sẽ hạn chế việc thu nhận chất sắt. vì thế, không nên cho trẻ uống nước trà.
Để không bị thiếu máu thì cần ăn đủ dinh dưỡng với đa dạng các loại thực phẩm. Ví dụ 100g thịt heo chỉ có 1mg sắt, 100g thịt bò có 3mg sắt, nhưng 100g gan thì có đến 12mg sắt, và 100g huyết luộc có đến 25mg sắt.
Do đó, cần ăn nhiều loại thực phẩm, đổi thay món và chú ý thực phẩm giàu chất sắt. Một chế độ ăn đủ loại chất sẽ bổ sung các thành phần dinh dưỡng lẫn nhau và cơ thể sẽ được cung cấp đủ đạm, chất sắt, vitamin B12, acid folic… để tạo máu.
Bà mẹ mang thai cần ăn đủ chất và uống mỗi ngày một viên sắt (viên chứa 60mg sắt và 400 mcg acid folic) ngay từ khi có thai đến sau sinh một tháng để tăng dự trữ sắt cho trẻ lọt lòng. Sau 6 tháng tuổi cho ăn dặm thì ngoài bột, cháo cần cho thêm thực phẩm giàu đạm, giàu sắt, các loại rau và dầu ăn vào chén thức ăn của trẻ.
Vệ sinh ăn uống (ăn chín, uống sôi, rửa sạch rau trái), vệ sinh cá nhân chủ nghĩa (rửa tay trước khi ăn và sau khi đi tiêu tiểu, không đi chân đất) và vệ sinh môi trường nhà ở sẽ giúp dự phòng nhiễm giun sán. Mọi thành viên trong gia đình (trừ trẻ dưới 2 tuổi) cần xổ giun sán định kỳ mỗi năm 2 lần (mỗi 6 tháng) để tránh việc “nuôi giun sán ” trong bụng gây thiếu máu thiếu sắt.
căn nguyên thường do chế độ ăn không cung cấp đủ cho nhu cầu của thân. Tình trạng nhiễm giun sán cũng góp phần làm gia tăng tỷ lệ thiếu máu.